Web (hay website) là gì?
Web (hay website) là một tập hợp thông tin có thể được truy cập thông qua Internet. Tập hợp thông tin này chính là những thứ được phát triển và đăng tải lên Web, từ các bài báo, mạng xã hội, trang giải trí,…
Có khá nhiều người thường nhầm lẫn Web với Internet, Internet là hạ tầng, còn Web chính là những thứ được phát triển trên hạ tầng đó. Một ví dụ đơn giản là anh em có thể liên tưởng:
Internet giống như một cái hiệu sách.
Web chính là các bộ sưu tập sách trong hiệu sách đó.
Tập hợp thông tin chính là những quyển sách trong các bộ sưu tập sách.
Tất cả giúp hình thành nên không gian mạng mà ta đang truy cập ngày nay.
Để hiểu được Web 3.0 là gì ta cùng ngược dòng thời gian để hiểu hơn về các thế hệ Web trước đó.
Thời đại của của Web 1.0 và 2.0
Vào năm 1990 khi Internet mới được thành lập, người ta vẫn chưa định nghĩa Web 1.0 là gì mà chỉ đơn thuần gọi nó là Internet để sử dụng. Lúc đó các trang web chỉ có thể thụ động cung cấp thông tin, chủ sở hữu website là những người đưa thông tin, còn những người dùng Internet chỉ có thể tiếp nhận thông tin trên đó mà không thể làm gì khác.
Darcy DiNucci là người đầu tiên nêu ra khái niệm về web 2.0. Bà viết như sau:
“WEB MÀ CHÚNG TA ĐANG BIẾT, VỐN CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ TẢI VỀ HÌNH ẢNH VÀO MỘT CỬA SỔ TRÌNH DUYỆT TĨNH, ĐÂY CHỈ LÀ MỘT PHẦN RẤT NHỎ CỦA WEB TRONG TƯƠNG LAI. NHỮNG DẤU HIỆU CỦA WEB 2.0 TRONG THỜI GIAN ĐẦU ĐÃ XUẤT HIỆN DẦN DẦN, VÀ CHÚNG TA CHỈ MỚI THẤY ĐƯỢC NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN. WEB SẮP TỚI CÓ THỂ HIỂU NHƯ LÀ NƠI MÀ CÁC HÀNH ĐỘNG XẢY RA….”
Từ đó người ta định nghĩa ngược lại các website trong Internet trước thời 2.0 là Web 1.0. Sự khác biệt lớn nhất giữa Web 2.0 và Web 1.0 là khả năng tương tác. Web 2.0 là những website có khả năng tương tác giữa người dùng và website.
Bạn có thể đăng ký tài khoản, bình luận, post video trên youtube là những ứng dụng thường thấy nhất. Về mặt kỹ thuật, các Web 2.0 tiến bộ hơn các Web 1.0 ở điểm chúng có thể tách các yêu cầu gửi lên hệ thống và các dữ liệu phản hồi riêng biệt, nó giúp cho bạn không cần phải load lại toàn bộ website để thực hiện thao tác bất kỳ.
Web 3.0 là gì?
Web 3.0 là thế hệ thứ ba sắp tới của Internet, nơi các trang web và ứng dụng sẽ có thể xử lý thông tin theo cách thông minh giống như con người thông qua các công nghệ như máy học (ML), Dữ liệu lớn, công nghệ sổ cái phi tập trung (DLT), v.v. Ban đầu, Web 3.0 được nhà phát minh World Wide Web, Tim Berners-Lee, gọi là Semantic Web, và nó nhằm mục đích trở thành một internet tự chủ, thông minh, và cởi mở hơn.
Web 3.0 được sinh ra từ sự phát triển tự nhiên của các công cụ web thế hệ cũ kết hợp với các công nghệ tiên tiến như AI và blockchain, cũng như sự kết nối giữa người dùng và việc sử dụng internet ngày càng tăng. Rõ ràng, Internet 3.0 là một bản nâng cấp cho các tiền thân của nó: web 1.0 và 2.0.
Định nghĩa Web 3.0 có thể được mở rộng như sau: dữ liệu sẽ được kết nối với nhau theo cách phi tập trung. Đây sẽ là một bước tiến vượt bậc so với thế hệ internet hiện tại của chúng ta (Web 2.0), nơi dữ liệu chủ yếu được lưu trữ trong các kho lưu trữ tập trung.
Hơn nữa, người dùng và máy móc sẽ có thể tương tác với dữ liệu. Nhưng để làm được điều này, các chương trình cần hiểu được thông tin cả về mặt khái niệm lẫn ngữ cảnh. Với suy nghĩ này, Web 3.0 có hai nền tảng là semantic web (mạng ngữ nghĩa) và trí tuệ nhân tạo (AI).
Web 3.0 Tiền điện tử và Blockchain
Vì mạng Web 3.0 sẽ hoạt động thông qua các giao thức phi tập trung, các khối sáng lập của blockchain và công nghệ tiền điện tử, nên chúng ta có thể mong đợi sự hội tụ và mối quan hệ cộng sinh mạnh mẽ giữa ba công nghệ này và các lĩnh vực khác. Chúng sẽ có thể tương tác, tích hợp liền mạch, tự động thông qua các hợp đồng thông minh và được sử dụng để cung cấp năng lượng cho bất kỳ thứ gì từ các giao dịch vi mô ở Châu Phi, lưu trữ và chia sẻ tệp dữ liệu P2P chống kiểm duyệt với các ứng dụng như Filecoin để thay đổi hoàn toàn mọi hành vi và hoạt động kinh doanh của công ty. Một loạt các giao thức DeFi hiện tại chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Các tính năng chính của Web 3.0
Để thực sự hiểu về giai đoạn tiếp theo của internet, chúng ta cần xem xét bốn tính năng chính của Web 3.0:
Ubiquity
Semantic Web
Trí tuệ nhân tạo
Đồ họa 3D
Ubiquity
Ubiquity (tính phổ biến) có nghĩa là nó sẽ hoặc có khả năng sẽ có ở khắp mọi nơi, đặc biệt là cùng một lúc. Nói cách khác, nó có mặt khắp nơi. Theo nghĩa đó, Web 2.0 đã có tính phổ biến, chẳng hạn như người dùng Facebook có thể chụp ảnh và chia sẻ ảnh ngay lập tức. Điều này có tính phổ biến vì nó có sẵn cho bất kỳ ai dù họ ở đâu, miễn là họ có quyền truy cập nền tảng truyền thông xã hội.
Web 3.0 chỉ đơn giản là đưa điều này tiến thêm một bước nữa bằng cách làm cho mọi người có thể truy cập internet ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào. Đến một lúc nào đó, các thiết bị kết nối internet sẽ không còn tập trung vào máy tính và điện thoại thông minh như với Web 2.0 nữa vì công nghệ IoT (Internet of Things – Internet vạn vật) sẽ mang đến vô số loại thiết bị thông minh mới.
Semantic Web
Semantic (ngữ nghĩa) là nghiên cứu về mối quan hệ giữa các từ. Do đó, theo Berners-Lee, Semantic Web (Mạng ngữ nghĩa) cho phép máy tính phân tích vô số dữ liệu từ Web, bao gồm nội dung, giao dịch và liên kết giữa con người với nhau. Trên thực tế, điều này trông sẽ như thế nào?
Ví dụ: hãy lấy hai câu sau:
Tôi yêu Blockchain
Tôi Blockchain
Cú pháp của chúng có thể khác nhau, nhưng ngữ nghĩa của chúng khá giống nhau, vì ngữ nghĩa chỉ liên quan đến ý nghĩa hoặc cảm xúc của nội dung.
Việc áp dụng ngữ nghĩa trong Web sẽ cho phép máy móc giải mã ý nghĩa và cảm xúc bằng cách phân tích dữ liệu. Do đó, người dùng internet sẽ có trải nghiệm tốt hơn nhờ kết nối dữ liệu nâng cao.
Trí tuệ nhân tạo
Wikipedia định nghĩa AI là trí thông minh do máy móc thể hiện. Và vì máy tính Web 3.0 có thể đọc và giải mã ý nghĩa và cảm xúc được truyền tải bởi một tập hợp dữ liệu, nên nó tạo ra những máy móc thông minh. Mặc dù Web 2.0 có các khả năng tương tự, nhưng nó vẫn chủ yếu dựa vào con người. Điều này tạo ra chỗ đứng cho các hành vi sai trái như đánh giá sản phẩm thiên vị, xếp hạng gian lận, v.v.
Ví dụ: các nền tảng đánh giá trực tuyến như Trustpilot cung cấp cách thức để người tiêu dùng đánh giá mọi sản phẩm hoặc dịch vụ. Không may là, một công ty có thể tập hợp một nhóm người và trả tiền cho họ để tạo ra các đánh giá tích cực cho các sản phẩm không đáng có của công ty. Vì vậy, internet cần có AI để học cách phân biệt hàng thật và hàng giả nhằm cung cấp dữ liệu đáng tin cậy.
Gần đây, hệ thống AI của Google đã xóa khoảng 100.000 đánh giá tiêu cực về ứng dụng Robinhood khỏi Cửa hàng Play sau sự cố giao dịch Gamespot khi hệ thống này phát hiện ra các nỗ lực thao túng xếp hạng nhằm mục đích phản đối ứng dụng một cách giả tạo. Đó là một ví dụ về việc AI đang hoạt động. Điều này sẽ sớm hoàn toàn phù hợp với Internet 3.0, cho phép các blog và các nền tảng trực tuyến khác có thể sàng lọc dữ liệu và điều chỉnh chúng theo ý thích của từng người dùng. Khi AI tiến bộ, cuối cùng nó sẽ có thể cung cấp cho người dùng những dữ liệu được lọc tốt nhất và không thiên vị.
Spatial Web (Web không gian) và Đồ họa 3D
Một số nhà tương lai học còn gọi Web 3.0 là Web không gian vì nó nhằm mục đích xóa mờ ranh giới giữa vật lý và kỹ thuật số bằng cách cách mạng hóa công nghệ đồ họa, đưa vào thế giới ảo ba chiều (3D) một sự tập trung rõ ràng.
Không giống như các đối tác 2D, đồ họa 3D mang đến một cấp độ đắm chìm mới không chỉ cho các ứng dụng trò chơi tương lai như Decentraland, mà còn cho các lĩnh vực khác như bất động sản, y tế, thương mại điện tử, và nhiều lĩnh vực khác.
Ứng dụng Web 3.0
Một yêu cầu phổ biến đối với ứng dụng Web 3.0 là khả năng xử lý khối lượng thông tin lớn và biến chúng thành kiến thức thực tế và các thực thi hữu ích cho người dùng. Như đã nói ở trên, những ứng dụng này vẫn đang ở giai đoạn đầu, có nghĩa là chúng còn rất nhiều thứ để cải thiện và khác xa so với cách các ứng dụng Web 3.0 có thể hoạt động.
Một số công ty đang xây dựng hoặc đã có các sản phẩm mà họ đang chuyển đổi thành các ứng dụng Internet 3.0, đó là Amazon, Apple và Google. Hai ví dụ về các ứng dụng sử dụng công nghệ Web 3.0 là Siri và Wolfram Alpha.
Siri
Trong những năm qua, trợ lý AI điều khiển bằng giọng nói của Apple đang ngày càng thông minh hơn và đã mở rộng khả năng của mình kể từ lần đầu tiên xuất hiện trên mẫu iPhone 4S. Siri sử dụng tính năng nhận dạng giọng nói, cùng với trí tuệ nhân tạo, để có thể thực hiện các lệnh phức tạp và được cá nhân hóa.
Ngày nay, Siri và các trợ lý AI khác như Alexa của Amazon và Bixby của Samsung có thể hiểu các yêu cầu như “cửa hàng bánh mì kẹp thịt gần nhất ở đâu” hay “đặt lịch hẹn với Sasha Marshall lúc 8 giờ sáng mai” và ngay lập tức đưa ra thông tin hoặc hành động phù hợp.
Wolfram Alpha
Wolfram Alpha là một “công cụ kiến thức tính toán” trả lời trực tiếp các câu hỏi của bạn bằng cách tính toán, trái ngược với việc cung cấp cho bạn danh sách các trang web như các công cụ tìm kiếm. Nếu bạn muốn so sánh với thực tế, hãy tìm kiếm “Anh vs Brazil” trên cả Wolfram Alpha và Google và xem sự khác biệt.
Google cung cấp kết quả của World Cup ngay cả khi bạn không bao gồm “bóng đá” làm từ khóa, vì đây là tìm kiếm phổ biến nhất. Mặt khác, Alpha sẽ cung cấp cho bạn một so sánh chi tiết về hai quốc gia, giống như bạn đã hỏi. Đó là sự khác biệt chính giữa Web 2.0 và 3.0.
Các dự án Crypto áp dụng Web 3.0
Chắc hẳn với những thông tin ở trên anh em cũng có thấy độ rộng của Web 3.0. Có thể nói blockchain là một phần của Web 3.0 và các dự án phát triển trên blockchain đều thuộc Web 3.0.
Các dự án nổi bật
Helium
Helium (HNT) là một mạng lưới không dây peer to peer phi tập trung (Decentralized Wireless Network) được xây dựng trên nền tảng blockchain. Nó hoạt động dựa trên Proof of Coverage và thuật toán đồng thuận mới dựa trên HoneyBadger BFT.
Helium được dùng để định tuyến dữ liệu cho các thiết bị IoT tầm xa (Internet of Thing) có công suất thấp.
Filecoin
Filecoin (FIL) giống Arweave, là dự án cùng thuộc mảng Decentralized Storage. Filecoin được biết tới là một trong những tên tuổi đầu tiên làm về mảng storage và nổi bật nhất nhờ ứng dụng giao thức phân phối mã nguồn mở (IPFS).
The Graph
The Graph (GRT) là một giao thức cho phép lập chỉ mục (index) và truy vấn dữ liệu từ Blockchain. The Graph cho phép bất kỳ ai cũng có thể truy cập để xây dựng và publish các API gọi là Subgraph. Subgraph giúp việc truy cập Data từ Blockchain dễ dàng hơn.
Livepeer
Livepeer (LPT) là cơ sở hạ tầng hỗ trợ cho streaming video theo hướng phi tập trung. Livepeer tận dụng tính phân quyền của Blockchain khiến người dùng có thể làm chủ được nội dung mình tạo ra và có thể tự do chia sẻ nội dung một cách hiệu quả hơn.
Polkadot
Polkadot (DOT) là một công nghệ đa chuỗi (Multi-Chain), không đồng nhất (heterogeneous) và có thể mở rộng. Cho phép các Blockchain kết nối với nhau để chia sẻ dữ liệu để tạo thành một Network phi tập trung.
Polkadot tập trung giải quyết hai vấn đề chính của Blockchain đó là khả năng tương tác và khả năng mở rộng của mạng lưới. Polkadot là một dự án mã nguồn mở và bất cứ ai cũng có thể tự do đóng góp cho sự phát triển của nền tảng. Đối với Polkadot, Web3 Foundation có vai trò đóng góp tài chính lẫn công nghệ.
Kusama (KSM) là mạng lưới chuyên dụng của Polkadot đóng vai trò phát hiện và cảnh báo bất kỳ lỗ hổng hoặc điểm yếu nào trên mạng lưới Polkadot. Đối với các nhà phát triển thì Kusama là nền tảng minh chứng cho việc nâng cấp thời gian chạy và quản trị trên chuỗi.
Có thể nói Kusama là phiên bản thử nghiệm của Polkadot tồn tại như một mạng độc lập và nó cho phép các nhà phát triển blockchain triển khai và thử nghiệm các phiên bản hay ứng dụng trên mạng lưới này trước khi khởi chạy chúng trên Polkadot. Kusama được thành lập vào năm 2019 bởi Gavin Wood, người sáng lập Polkadot đồng thời là đồng sáng lập và cựu CTO của Ethereum.
Web3 Foundation cung cấp nguồn quỹ tài trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển phần mềm dựa trên Polkadot và Kusama lên tới 100.000 USD cho mỗi dự án. Để có thể nhận được tài trợ, dự án cần có mã nguồn mở và các giấy phép như GNU GPLv3, Apache 2.0.
Ngoài việc ủng hộ các dự án Web 3.0 ra thì chính Web3 Foundation cũng tự mình thực hiện các dự án nghiên cứu bởi một nhóm nội bộ có trụ sở tại Zug (Thụy Sỹ) đồng thời phối hợp với các dự án chuyên ngành và các nhóm nghiên cứu học thuật khác.
Arweave
Arweave (AR) là Protocol lưu trữ dữ liệu Blockchain dựa trên thuật toán đồng thuận thế hệ mới Proof of Access để tạo ra kho lưu trữ dữ liệu thực sự vĩnh viễn đầu tiên trên thế giới.
Vào tháng 12, 2020 Solana đã phát triển SOLAR bridge cho phép chuyển giao dữ liệu từ Solana để lưu trữ ở Arweave và cũng có thể truy vấn dữ liệu ngược lại từ Arweave sang Solana. Từ đó đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về doanh thu của Arweave.
Tổng kết
Web 3.0 chắc chắn sẽ xuất hiện hãy thử xem xét cách các thiết bị thông minh đã thay đổi cuộc sống của chúng ta như thế nào internet sẽ trở nên tích hợp hơn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta theo cấp số nhân. Vì càng tìm hiểu sâu mình càng thấy được sự khổng lồ và những thứ chúng có thể mang lại.