Gavin Wood là ai? Gavin Wood là một lập trình viên máy tính người Anh, đồng sáng lập Ethereum và là người tạo ra nền tảng Polkadot. Wood đã phát minh ra ngôn ngữ lập trình Solidity, viết Yellow Paper cho Ethereum Virtual Machine và kiêm Giám đốc Công nghệ (CTO) đầu tiên của Ethereum Foundation. Sau khi rời Ethereum vào năm 2016, Wood đồng sáng lập Parity Technologies (trước đây là Ethcore), một công ty phát triển cơ sở hạ tầng cốt lõi cho Ethereum, Bitcoin, Zcash và Polkadot; và sau đó là Web3 Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào cơ sở hạ tầng và công nghệ internet phi tập trung, bắt đầu với mạng Polkadot.
Thuở thiếu thời Ngay từ nhỏ, Gavin Wood tỏ ra thích công nghệ và lý thuyết trò chơi. Tình yêu của Wood dành cho máy tính và công nghệ “như cá gặp nước”. Sean, một người hàng xóm ở Lancashire County, đã dạy Wood viết code chương trình máy tính đầu tiên và các giáo viên trường Lancaster Royal Grammar School đã truyền cảm hứng cho Wood theo đuổi đam mê của mình. Sau khi tốt nghiệp Lancaster Royal Grammar School, Wood theo ngành kỹ sư phần mềm và học thạc sĩ kỹ thuật tại University of York.
Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ, Wood đã phát triển một công cụ trò chơi đa nền tảng thế hệ tiếp theo cho Frontier Developments. Năm 2007, Wood bắt đầu viết Quid Pro Code, một cửa hàng phần mềm, nơi Wood thiết kế và triển khai bàn làm việc ngôn ngữ C++ đầu tiên Martta, trong khi tham khảo ý kiến của Microsoft Research về các khía cạnh kỹ thuật của ngôn ngữ dành riêng cho domain (tên miền) được nhúng.
Vào năm 2011, với tư cách là Giám đốc Kỹ thuật tại Lancaster Logic Response (LLR), Wood đã sử dụng các kỹ thuật từ quá trình nghiên cứu tiến sĩ của mình để phát triển hệ thống tạo ra các buổi trình diễn ánh sáng thời gian thực trên nền âm nhạc, được triển khai tại một trong những hộp đêm hàng đầu của London. Tại LLR, tiến sĩ Wood cũng đã tham gia phát triển Noted, một môi trường C++ chú thích và phân tích âm thanh có thể mở rộng.
Gặp gỡ Vitalik Buterin và phát triển Ethereum Vào năm 2013, Wood gặp gỡ Vitalik Buterin thông qua một người bạn chung và bắt đầu thực hiện dự án không mấy liên quan đến đề án tiến sĩ của mình. Sau đó, Wood cùng Buterin nghiên cứu nền tảng phi tập trung khá giống với Bitcoin đương nhiệm, đồng thời khác biệt rất lớn về tầm nhìn và theo đuổi phi tập trung hóa Internet.
“Từ khi còn trẻ, tôi đã rất quan tâm đến kinh tế học và lý thuyết trò chơi. Khi tôi lần đầu tiên đọc về Bitcoin vào năm 2011, tôi không quá quan tâm đến nó vì tôi quá chú ý đến ứng dụng của nó trong tiền tệ hơn là bản thân công nghệ. Tuy nhiên, khi xem xét lại vào đầu năm 2013, tôi bắt đầu nhận ra rằng việc kết hợp ITC và lý thuyết trò chơi có thể mở ra nhiều khả năng mới và thậm chí có thể mang lại một loạt thay đổi xã hội không thể tránh khỏi. Cũng trong năm này, một người bạn đã giới thiệu tôi với Vitalik (người sáng lập khác của Ethereum), và Ethereum đã chiếm trọn cuộc đời tôi kể từ đó.” – Gavin Wood Tại Miami vào tháng 1/2014, Wood cùng Buterin, Charles Hoskinson, Anthony Di Iorio, Wendell Davies và những người khác đã triển khai chức năng đầu tiên của Ethereum (được gọi là PoC-1 hoặc bản phát hành alpha). 5 người trong số họ đã trình bày PoC-1 tại North American Bitcoin Conference (Hội nghị Bitcoin Bắc Mỹ) ở Miami vào tháng 1/2014. Wood sau đó trở thành đồng sáng lập và Giám đốc Công nghệ của Ethereum. Đồng thời là người viết Yellow Paper, mô tả đặc điểm kỹ thuật chính thức đầu tiên của Ethereum Virtual Machine.
Trong 2 năm tiếp theo, Wood chỉ tập trung vào phát triển Ethereum, bao gồm kiến trúc nền tảng chung, phần lớn ứng dụng khách Ethereum C++ và thiết kế ban đầu của Solidity, một ngôn ngữ lập trình định hướng đối tượng để viết các hợp đồng thông minh mà Ethereum sử dụng.
Đến năm 2016, Wood mở rộng trọng tâm của mình và thành lập EthCore, nhanh chóng gây quỹ tiền hạt giống. Với hơn 60 nhà phát triển trên 15 quốc gia, EthCore sau này trở thành Parity Technologies.
Rời khỏi Ethereum và phát triển Parity và Web3 Foundation Hai năm sau khi thành lập Ethereum, Wood tiếp tục thành lập Parity Technologies, một công ty cơ sở hạ tầng blockchain cho web phi tập trung, cùng với các cựu nhân viên Ethereum là Jutta Steiner (Trưởng Bộ phận Kiểm toán Bảo mật), Tiến sĩ Aeron Buchanan (Giám đốc Tài chính) và Ken Kappler (Trưởng ban Đối ngoại).
Tại Parity, Wood đã đưa ra ý tưởng về một loạt các dự án để đổi mới bối cảnh ứng dụng phi tập trung hiện tại, chẳng hạn ứng dụng khách Ethereum nhanh nhất và tiên tiến nhất Parity Ethereum, các khuôn khổ blockchain DIY như Substrate, một ngăn xếp công nghệ linh hoạt cho phép người dùng xây dựng blockchain của riêng họ từ ngôn ngữ lập trình Scratch.
Wood tiếp tục duy trì tầm nhìn về Internet phi tập trung của mình với Ewald Hesse, Tiến sĩ Ana Trbovich và 3 nhà tiên phong blockchain khác trong việc đồng sáng lập Grid Singularity, một nền tảng sàn giao dịch dữ liệu năng lượng phi tập trung dựa trên Internet mở được xây dựng trên công nghệ blockchain. Wood cũng đã tham gia quản lý tài sản phi tập trung cho nhiều blockchain với MelonPort AG vào năm 2016.
Sau đó Wood đã thành lập Web3 Foundation để nuôi dưỡng các công nghệ và ứng dụng trong lĩnh vực giao thức phần mềm web phi tập trung nhằm ổn định hệ sinh thái Web 3 thông qua việc áp dụng các phương pháp mật mã hiện đại trong mạng phi tập trung. Web3 Foundation hỗ trợ nghiên cứu giao thức Whisper mà Wood đã ấp ủ từ năm 2014, hứa hẹn sẽ cho phép tin nhắn phân tán riêng tư trong Web 3.0 tương lai.
“Bốn năm trước, tôi đã đặt ra thuật ngữ “Web 3.0”. Vào thời điểm đó, tôi biết rất rõ: Ethereum, nền tảng mà tôi tham gia phát triển, cho phép mọi người tương tác đôi bên cùng có lợi mà không cần tin tưởng lẫn nhau. Với công nghệ truyền thông điệp và xuất bản dữ liệu, chúng tôi hy vọng sẽ xây dựng một mạng ngang hàng, mạng ngang hàng này có thể làm bất cứ điều gì mà Internet ngày nay có thể làm mà không cần máy chủ và không ai có thẩm quyền quản lý luồng thông tin.” – Gavin Wood. Trong khi phát triển Parity Ethereum và chờ phát hành một đặc điểm kỹ thuật Ethereum mới bao gồm cả sharding, Wood đã bắt đầu cân nhắc về những trở ngại của sharding mà một blockchain sẽ phải đối mặt. Wood mất khoảng 4 tháng để đưa ra tầm nhìn cho một khuôn khổ đa chuỗi không đồng nhất: Giao thức Polkadot.
Sáng lập ra nền tảng Polkadot Polkadot lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 2017 sau những nỗ lực tập trung vào Parity Technologies và Web3 Foundation. Tại đây, Wood mô tả Polkadot như một “siêu giao thức”, trong đó chỉ có tầng cuối của Blockchain là cố định. Nhà đồng sáng lập Ethereum cho rằng, khi làm việc tại tầng này, việc thực hiện quản trị là hoàn toàn khả thi, ngoài những hoạt động khác như cân bằng, kế toán, giao dịch và parachain. Theo Wood, Polkadot đã tận dụng được sự sắp xếp này nhằm nâng cấp hệ thống quản trị của nó một cách tự lập.
Polkadot được thiết kế để cho phép các Blockchain giao tiếp với nhau và tạo điều kiện nâng cấp tự động (miễn là chúng xác nhận với các thông số kỹ thuật nhất định). Kèm một hình thức quản trị mới bằng đồng DOT, token nội bộ của mạng, cho phép chủ sở hữu bỏ phiếu về các thay đổi mã tiềm năng, sau đó sẽ tự động nâng cấp trên toàn mạng nếu đạt được sự đồng thuận.
Polkadot đã huy động được khoảng 144 triệu đô la trong đợt bán token đầu tiên vào tháng 10 năm 2017, với các nhà đầu tư chính bao gồm Boost VC, Pantera Capital và Polychain Capital, như báo cáo của WSJ.
Những đổi mới tiếp theo sau Polkadot là Substrate, khuôn khổ để xây dựng hiệu quả các blockchain của riêng bạn và mạng Kusama độc lập với Polkadot nhưng chạy trên cùng một phần mềm làm nền tảng chứng minh cho công nghệ tiên tiến.
Kusama cho phép các nhà phát triển khám phá những điều phức tạp hơn của Polkadot trong môi trường kinh tế thực trước khi tung ra công nghệ của họ trên mainnet (mạng chính). Sự kiện ra mắt Kusama được chứng minh là có giá trị đối với sự kiện ra mắt Polkadot.
Polkadot, Web 3.0 và chuỗi mạng lưới blockchain phức tạp được Gavin Wood đặt mục tiêu kết hợp tất cả lại với nhau và đi tiên phong trong tầm nhìn của anh về một thế giới có ‘Internet đồng thuận’. Xem xét quyền kiểm soát thống trị của Facebook và Google đối với dữ liệu cá nhân của chúng ta, phát triển internet dường như là một theo đuổi hợp lý.